Mật động vật được dùng làm thuốc cả trong y học hiện đại và y học cổ truyền. Y học hiện đại chỉ dùng Mật bò, Mật lợn.
Trái lại, y học cổ truyền lại dùng mật của nhiều loài. Tác dụng chủ yếu của Mật là giảm đau, kích thích tiêu hóa, lợi tiểu, tiêu sưng, diệt khuẩn... Dùng ngoài: hàn vết thương. Tuy nhiên, cần phải chế biến Mật đúng cách để tránh bị ngộ độc.
Mật gà
Mật gà có tên thuốc là Kê đởm, vị đắng, tính hàn, không độc, có tác dụng giảm ho, long đờm, tiêu độc, chống viêm. Theo tài liệu nước ngoài, Mật gà được dùng chữa ho gà nhất là trường hợp ho nặng có chảy máu. Lấy một cái Mật gà, rút hết nước, trộn với Mật ong, lượng bằng nhau. Trẻ em từ một tuổi trở xuống, mỗi ngày uống 1/3 hỗn hợp; 1-3 tuổi uống1/2; 4-6 tuổi uống hết làm một lần. Dùng 5-7 ngày
Chữa liệt dương: Mật gà trống 1 cái, mật cá chép 1 cái, trứng chim sẻ 1 quả. Rút nước mật, trộn với trứng rồi uống làm 1 lần trong ngày.
Chữa ho lâu ngày: Mật gà đen 1 cái; hạt chanh, hạt quất, lá thạch xương bồ, mỗi thứ 10g. Tất cả để tươi, giã nát, thêm đường, hấp cơm cho chín, uống trong ngày.
Chữa ho gà, ho khan, ho có đờm: Mật gà 10 cái; hạt chanh, hạt mướp đắng, mỗi thứ 20g; đường cát 25g. Hạt chanh và hạt mướp đắng đem sao khô, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn đều với nước mật gà, phơi khô, tán lại cho thật mịn. Đường đun cho chảy, luyện với bột trên làm viên bằng hạt đỗ xanh, sấy khô. Trẻ em từ 1-5 tuổi, mỗi lần uống 2-4g; 6-10 tuổi uống 5-8g. Ngày uống 2 lần với nước ấm.
Mật lợn
Mật lợn ít được dùng tươi vì rất đắng, khó uống và không để được lâu. Thông thường khi cắt túi mật, hứng nước mật lợn vào bát đã khử khuẩn. Lọc, đun cách thủy, vừa đun vừa khuấy đều đến khi nghiêng bát mà không thấy mật chảy ra là được cao đặc có màu vàng, hơi xanh. Hoặc nhỏ từ từ dung dịch phèn chua bão hòa vào nước mật đến khi kết tủa. Lọc để lấy tủa. Rửa tủa bằng nước cất để loại phèn chua. Đựng tủa trong một đĩa men cho vào tủ sấy ở nhiệt độ dưới 700C. Đến khi khô, để nguội, tán thành bột sẽ được cao khô - tên thuốc là trư đởm.
Trong y học cổ truyền, Trư đởm có vị đắng, mùi tanh, tính lạnh, không độc, có tác dụng giảm đau, tiêu viêm, kích thích tiêu hóa, bài tiết mật, sát khuẩn, thông đại tiện, chữa đau bụng, đau dạ dày, ho, ho gà, hen suyễn, viêm đại tràng, vàng da, sỏi mật...
Chữa ho gà: Tán mịn cao mật lợn khô với tỷ lệ 20mg cao trộn với 1ml sirô. Ngày uống 3 lần. Trẻ dưới 1 tuổi: mỗi lần 1/2 thìa cà phê; 1-2 tuổi uống 1 thìa cà phê; 3 tuổi 1 thìa rưỡi; hơn 3 tuổi 2 thìa.
Chữa viêm xoang: Cao mật lợn tán mịn trộn với bột lá hoắc hương. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 3g.
Chữa táo bón: Bột cao mật lợn khô, tá dược vừa đủ, hoàn viên. Người lớn ngày uống 2 lần vào sáng sớm và buổi tối trước khi đi ngủ, mỗi lần 0,3-0,6g. Nếu táo bón nhiều dùng ngày đầu 2g ngày, chia 2 lần rồi giảm dần.
Chữa đau dạ dày, viêm đại tràng: Cao mật lợn cô cách thủy, tá dược hoàn viên, ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 0,5 - 1g, trước bữa ăn.
Thuốc dùng ngoài: Nước mật lợn để nguyên hoặc cô đặc phối hợp với hoàng bá bôi chữa bỏng (Nam dược thần hiệu). Nước mật lợn phối hợp với nghệ vàng hoặc gừng tươi chữa nhọt độc; Cao mật lợn phối hợp với củ hành tươi, tỏi, lá trầu không, lá ớt chữa vết thương phần mềm, chữa bỏng.
Mật cá
Mật cá chép: 1 cái phối hợp với gan gà trống 1 cái ngâm với 500ml rượu trắng. Để càng lâu càng tốt, thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30ml chữa liệt dương.
Mật cá diếc: 1 cái đốt thành than, tán nhỏ, trộn với dầu vừng, bôi chữa sa dạ con.
Mật cá trắm kể cả cá trắm đen và cá trắm trắng, đều được dùng để làm thuốc. Sử dụng mật cá trắm dưới dạng dùng ngoài và sấy khô, rất ít dùng đường uống không có liều lượng.
Mật cá trắm vị đắng, tính hàn, có công dụng thanh nhiệt giải độc được dùng để chữa các chứng bệnh như cổ họng sưng đau (lấy chút ít mật cá trắm phơi khô hòa với mật ong rồi ngậm, mỗi ngày vài lần), âm hộ sưng cứng như đá, đau nhức nhiều (mật cá trắm 7 cái hòa với lụa tơ tằm 12g đã đốt thành tro rồi bôi vào nơi tổn thương).
Một số tài liệu ghi rõ mật cá trắm là có độc. Sử dụng mật cá trắm phải hết sức thận trọng và nhất thiết phải có sự tư vấn của các thầy thuốc.
DS. Mai Thu Thủy
(Còn nữa)