TINH HOA XANH

Sơn tra: vị thuốc tiêu thực (phần 1)

Hiện nay đông y và tây y dùng Sơn tra với hai mục đích khác nhau. Tây y coi Sơn tra (hoa, quả, lá) là một vị thuốc chủ yếu tác dụng trên tuần hoàn (tim và mạch máu) và giảm đau, an thần. Đông y coi Sơn tra là một vị thuốc chủ yếu tác dụng trên bộ máy tiêu hóa.

Sơn tra còn gọi là Bắc sơn tra, nam sơn tra, dã Sơn tra. Tên khoa học Crataegus pinnatifida Bunge (Bắc sơn tra, Sơn tra), Crataegus cuneata Sieb.et Zucc. (Nam sơn tra, Dã sơn tra); thuộc họ Hoa hồng (ROSACEAE).

Sơn tra (Fructus Crataegi) là quả chín thái mỏng phơi hay sấy khô của cây bắc hay nam Sơn tra.

Bắc Sơn tra (Crataegus pinnatifida) là một cây cao 6m, cành nhỏ thường có gai. Lá dài 5 - 10cm, rộng 4 - 7cm, có 3 - 5 thùy, mép có răng cưa, mặt dưới dọc theo các gân có lông mịn, cuống lá dài 2 - 6cm. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Đài có lông mịn, cánh hoa màu trắng, 20 nhị. Quả hình cầu, đường kính 1 - 1,5cm, khi chín có màu đỏ thắm.

Cây Nam sơn tra hay Dã sơn tra (Crataegus cuneata) cao 15m, có gai nhỏ 5 - 8mm. Lá dài 2 - 6cm, rộng 1 - 4,5cm, có 3 - 7 thùy, mặt dưới lúc đầu có lông, sau nhẵn. Hoa mẫu 5, hợp thành tán. Cánh hoa trắng, 20 nhị. Quả hình cầu đường kính 1 - 1,2cm, chín có màu vàng hay đỏ.

Việt Nam hiện đang khai thác với tên Sơn tra hay Chua chát, quả của hai loài cây khác nhau.

Cây Chua chát, còn gọi là Sán sá (Tày) có tên khoa học Malus doumeri (Bois) Chev. hay Docynia doumeri (Bois) Schneid. Thuộc họ Hoa hồng (ROSACEAE). Cây này cao 10 - 15m, cây non có gai. Lá nguyên hình bầu dục dài 6 - 15cm, rộng 3 - 6cm, mép khía răng cưa. Hoa họp thành tán từ 3 - 5 hoa, hoa mẫu 5, cánh màu trắng. Quả tròn hơi dẹt, khi chín ngả màu vàng lục, đường kính 5 - 6cm, cao 4 - 5cm, vị chua hơi chát. Mùa hoa tháng 1 - 2, mùa quả tháng 9 - 10, cây này thường được khai thác ở Cao Bằng, Lạng Sơn.

Cây Táo mèo, còn gọi là Chi tô di (Mèo) có tên khoa học Docynia indica (Mall.). Dec. cùng thuộc họ Hoa hồng (ROSACEAE). Cây nhỡ cao 5 - 6m, cây non cành có gai. Lá đa dạng, ở cây non lá mọc so le, xẻ 3 - 5 thùy, mép có răng cưa không đều. Ở thời kỳ cây trưởng thành lá hình bầu dục dài 6 - 10cm, rộng 2 - 4cm, mép nguyên hoặc hơi khía răng. Hoa hợp từ 103 hoa, mẫu 5, cánh hoa màu trắng. Nhị 30 - 50. Quả hình cầu thuôn, đường kính 3 - 4cm, khi chín màu vàng lục, có vị chua, hơi chát. Mùa hoa tháng 3, mùa quả tháng 9 - 10. Táo mèo mọc hoang và được trồng ở Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai trên độ cao 1.000m. Ngoài ra còn cây Docynia delavayi (Franch). Schneid mùa hoa tháng 3, quả tháng 6 - 7. Lá cây này cứng hơn cây trên, mặt dưới lá có lông cũng dày hơn. Quả cũng tương tự nhưng có cuống dài hơn. Cũng được thu mua với tên táo mèo hay Sơn tra.

Sơn tra có vị chua, ngọt, tính ôn vào 3 kinh tỳ, vị và can

Trước đây Sơn tra hoàn toàn nhập của Trung Quốc. Những năm gần đây nước ta dùng Táo mèo và Chua chát dùng với tên Sơn tra. Nhưng hai cây này đều khác với chi Sơn tra thật (Crataegus) do đó cần được nghiên cứu so sánh việc sử dụng.

Về thành phần hóa học, thịt quả sơn tra tươi chứa 0,7% chất đạm, 0,2% chất béo, 22% chất đường, có các acid hữu cơ như crategolic acid, malic acid, oxalic acid, succinic acid, acetic acid, citric acid, ursolic acid, linoleic acid, linolenic acid, palmitic acid, oleic acid, stearic acid, giàu vitamin C (0,03% - 0,1%, đứng hàng thứ tư trong các loại hoa quả giàu vitamin C), vitamin B2 (đứng hàng đầu trong các loại hoa quả, ngang với chuối tiêu), caroten (đứng thứ hai trong các loại hoa quả) và canxi (mỗi 100g sơn tra có chứa 85mg canxi thuộc loại cao nhất trong các loài hoa quả). Ngoài ra, sơn tra còn chứa chì, sắt, tanin, acetylcholine, phytosterrin.

BS.CKII.HUỲNH TẤN VŨ

(còn nữa)

Tags

Hiển thị tất cả kết quả cho ""