Đây là hai bài thuốc cổ phương thần diệu và đầy huyền thoại. Các bài thuốc này dùng để điều trị nhiều chứng bệnh, trong đó có bệnh vô sinh - hiếm muộn, cho cả nam lẫn nữ.
Dùng những bài thuốc này đã lâu năm, cho nhiều ca bệnh, chúng tôi nhận thấy: việc bào chế đúng là quan trọng trong hiệu quả điều trị.
Được đánh giá cao
Tiền triết có nói: “Nhà Y mà không hiểu rõ chân tướng của tiên thái cực, không nghiên cứu tác dụng thần diệu của thủy hỏa vô hình mà không thể trọng dụng được những bài thuốc hay như Lục vị, Bát vị thì làm thuốc còn thiếu sót hơn một nửa.
“Do tạng thận là quan trọng bậc nhất của cơ thể, tất cả bệnh tật của con người rốt cuộc rồi cũng liên hệ tới thận, vì thận là nguồn gốc của trăm thứ bệnh. Xét trăm bệnh gây ra không bệnh nào là không vì hỏa, mà hỏa phát ra không khi nào là không do hư, vì gốc chứng hư không khi nào là không do thận. Vì thủy là nguồn của muôn vật, hỏa là cha của muôn vật, nguồn hay cha đều căn bản ở thận cả. Hễ thận nguyên đầy đủ thì mọi thể hiện đều yên và bệnh tật không có nữa. Người ta có sự sống đều nhờ vào tác dụng của âm dương thủy hỏa, mà thận là cái rễ của âm dương thủy hỏa, nếu âm dương mất điều hòa, thủy hỏa thiên lệch, trăm bệnh sinh ra ngay, mà cách chữa cứu âm không gì bằng làm mạnh chân thủy, bổ dương không gì bằng làm ích chân hỏa, mà thận cũng vừa là thủy cũng vừa là hỏa, cho nên cứu âm cứu dương mà không tìm chủ của nguồn thủy hỏa, bỏ rơi tạng thủy hỏa, bỏ bài Lục, Bát vị thì không tìm thấy cửa tất không có lối vào, cũng như trồng cây mà muốn bỏ rễ liệu cây có sống được không?”.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác có nói: “Tôi kinh nghiệm chữa bệnh đã lâu, biết rằng sự thần diệu của cổ phương không bài nào bằng các bài Lục, Bát vị, thật là thuốc thánh để bảo vệ sinh mạng, nếu mà hiểu sâu được ý nghĩa gặp từng loại bệnh mà suy rộng ra thì càng dùng thấy càng hay, đem chữa bệnh nào mà chẳng được.
“Dùng để trục tà (giải cảm) thì nó bổ chân thủy mà ra được mồ hôi.
“Dùng để tiêu đờm thì tan được chất hủ bại mà vận hóa mạnh lên.
“Dùng để khu phong thì nó sinh ra huyết mà phong tự hết.
“Dùng để tán hàn thì nó bổ chân hỏa mà âm hàn tự tiêu.
“Dùng để thanh thử thì nó thu nạp được khí về nguồn gốc.
“Dùng để trừ thấp thì nó dẹp được hết thủy tà.
“Chữa trẻ con thuần dương (hay sốt nóng) thì nó sinh thêm thiên quý để cứu bệnh không có âm”.
Công dụng chữa hiếm muộn
Cũng theo Hải Thượng Lãn Ông, các bài Lục vị, Bát vị có công dụng đặc biệt tốt trong điều trị bệnh hiếm muộn - vô sinh nam nữ. Ông có nói:
“Chữa bệnh kinh huyết thì nó bổ cho chân thủy để tưới nhuần vào chỗ huyết khô, huyết bế.
“Chữa bệnh vô sinh nam thì nó bổ thận, bồi dưỡng ngũ tạng, sinh tinh, làm cho tinh khí mạnh mẽ, rất dễ thụ thai.
“Chữa bệnh vô sinh nữ thì nó bổ chân âm điều hòa khí huyết kinh nguyệt, dưỡng trứng và nuôi dưỡng dạ con (tử cung).
“Uống lúc có mang thì nó giữ vững bào thai.
“Uống sau khi đẻ thì nó bồi dưỡng thêm tinh huyết; các chứng Phong, Lao, Cổ, Cách, uống bài này cũng cứu vãn được; thuốc uống lâu chân hỏa vững chắc ở đan điền thì hư phong còn đâu mà phát lên được, không phải lo sợ trúng phong nữa, vị cam ôn thì trừ được nóng dữ, vị bổ dưỡng thì tinh huyết dễ sinh, chứng cốt chưng (âm hư sốt nóng hâm hấp), phục nhiệt (nhiệt phục bên trong) còn chỗ nào ẩn náu được, chứng lao đã thành cũng khó mà dằng dai được, chân hỏa ở dưới đầy đủ, nguyên khí ở giữa tự nhiên lớn mạnh, sự tiêu hóa bình thường, thì chứng đầy bụng mà làm sao sinh được, chứng cổ trướng cũng không lo nữa. Dưới nồi có lửa thì cơm trong nồi tự nhiên chín, tinh khí dào dạt, tinh ba lan khắp bốn bên, thì chứng táo sáp, ợ nghẹn còn lo gì nữa. Chứng nặng đã có thể tiêu tan, thì chứng nhẹ dứt khoát khó mà trầm trọng được, huống hồ các loại rôm sảy nhỏ nhặt thì có khó gì, thật là môn thuốc quý báu nhất, là bài thuốc hay nhất dể bảo vệ sinh mạng. Dùng thường xuyên thì tinh huyết dồi dào da và sắc mặt hồng hào, sức khỏe dẻo dai, gân xương rắn chắc”.
Điều chủ yếu: cách dùng nó như thế nào là một vấn đề.
Trong bào chế bài Lục vị - Bát vị, vị thục địa là quan trọng nhất bài, chế kỹ rồi đem nấu cao hoặc giã nhuyễn ra trộn vào phần thuốc bột còn lại của bài thuốc, không nên sấy khô tán bột sẽ mất tác dụng của bài thuốc, không còn bổ thận nữa. Các vị còn lại trong bài tùy bệnh mà bào chế và gia giảm, chẳng hạn như: sơn thù tẩm rượu, hoài sơn, bạch linh tẩm sữa tươi hấp chín, phơi khô để dùng; đơn bì, trạch tả tẩm muối, sao khô. Ngoài ra còn có thể gia các vị như: đỗ trọng, tục đoạn, câu kỷ tử, nhục thung dung, huỳnh tinh, thỏ ti tử, ngũ vị tử, mạch môn, ngưu tất, ba kích, đương quy, bạch thược...
Bài Lục, Bát vị theo cổ phương: thục địa 320g, hoài sơn 160g, sơn thù160g, bạch linh120g, mẫu đơn bì 120g, trạch tả 120g. Thêm 2 vị nhục quế 40g, phụ tử 40g là bài bát vị. Cách chế: thục địa nấu cao, còn các vị khác sấy khô tán bột thắng mật ong thành châu, hòa chung làm hoàn mềm 10g, mỗi ngày dùng 4 - 6 viên với nước.
BS. NGUYỄN PHÚ LÂM
(Chủ tịch Hội Đông y huyện Mang Thít, Vĩnh Long)