Củ kiệu chữa chứng đau thắt ngực
HỎI:
Tôi thường hay bị đau thắt ở vùng ngực do bệnh mạch vành tim. Gần đây có người bạn cho một đơn thuốc Bắc, trong đó có một vị thuốc “giới bạch”. Nhưng khi nhờ người quen ở Hà Nội tới mấy hiệu thuốc ở phố Lãn Ông cân thuốc, người bán hàng lại nói rằng: chỉ có vị thuốc là “bạch giới” và đưa cho xem một thứ hạt nhỏ như hạt cải. Vậy đề nghị cho biết: “Giới bạch” và “bạch giới” có phải là cùng một vị thuốc hay không? Vị thuốc “giới bạch” có những tác dụng gì?
(T.T.A.T, Trường CĐSP Bắc Ninh)
ĐÁP:
“Giới bạch” và “Bạch giới” là hai vị thuốc khác nhau. Chữ “giới” trong “giới bạch” và “bạch giới” tuy có cùng âm Hán Việt nhưng viết khác nhau. “Bạch giới” có nghĩa là “rau cải trắng” (Brassica alba L.), còn “giới bạch” là “củ kiệu”.
Đông y thường dùng hạt rau cải trắng làm thuốc, gọi là “bạch giới tử” hoặc “bạch giới”.Trong Đông y “bạch giới tử” được xếp vào loại thuốc “hóa đàm chỉ khái” (trừ đờm, chống ho), còn “giới bạch” được xếp trong loại thuốc “lý khí” (điều hòa chức năng của “khí” trong cơ thể).
“Giới bạch” - “củ kiệu” còn có tên là “cò kiệu” (dân tộc Tày), “giới kiệu” (Tuệ Tĩnh), “giới căn”, “giới bạch đầu”, “dã toán”, “tiểu độc toán”, tên khoa học là Allium chinense G. Don., họ Hành LILIACEAE (ALLIACEAE). Cây kiệu có nguồn gốc từ Trung Quốc, hiện tại được trồng ở khắp các vùng quê ở nước ta, để lấy củ muối ăn và sử dụng làm thuốc.Kiệu là loài cây thảo, thân hành màu trắng, có nhiều vảy mỏng bọc bên ngoài. Thân mọc đứng, trần, hình trụ, cao 15-45cm. Lá mọc từ gốc, hình dải hẹp, nửa hình trụ, rộng 1,5-4mm, bên trong rỗng. Cụm hoa hình tán dạng bán cầu, màu tía nhạt hoặc trắng.-Theo Đông y, Củ kiệu có vị cay, đắng, tính ấm; vào 3 kinh Phế, Vị và Đại tràng. Có tác dụng lý khí, khoan hung (chống tức ngực), thông dương khí, tán uất kết, kiện vị, tiêu thực. Chủ trị hung tý (tức ngực), quản bĩ bất thư (khó chịu ở vùng dạ dày), nôn mửa, kiết lỵ, ung nhọt lở loét, ... Liều dùng: 5-10g khô (30-60g tươi), sắc hoặc tán bột làm viên uống. Dùng ngoài giã đắp hoặc vắt lấy nước bôi.Kiêng kỵ: Người phát nóng do khí hư hoặc âm hư, mồ hôi ra nhiều, đầu đau không nên dùng độc vị. Kiệu có tính hoạt lợi, không bị tích trệ cũng không nên dùng.
-Theo các nghiên cứu hiện đại. Giới bạch có tác dụng chống xơ vữa động mạch, phòng ngừa huyết khối gây nghẽn tắc mạch máu do có tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu, lợi niệu, hạ huyết áp, ức chế đối với nhiều loại vi khuẩn và tế bào ung thư.
BÀI THUỐC CÓ SỬ DỤNG CỦ KIỆU
Chữa tỵ uyên (viêm mũi mạn tính): Dùng Củ kiệu 9g, Tân di hoa 6g, Mộc qua 9g; nấu nước uống trong ngày.
Qua lâu giới bạch bạch tửu thang: Dùng Qua lâu 1 trái (giã nát), Giới bạch 15g, rượu trắng 100ml, nước 500ml, cùng sắc uống. Sắc lấy 200ml dịch thuốc, chia ra uống dần; uống ấm - nếu nguội cần hâm lại. Tác dụng: chữa chứng tức ngực, đau thắt tim, suyễn thở do hàn đàm ứ đọng gây nên.
Chỉ thực giới bạch quế chi thang: Chỉ thực 4 trái, Hậu phác 12g, Giới bạch 15g, Quế chi 9g, Qua lâu 1 trái (giã nát). Năm vị đem sắc với 1000ml nước. Đầu tiên nấu Chỉ thực và Hậu phác, sắc lấy 500ml dịch thuốc, bỏ bã; sau đó cho các vị thuốc còn lại vào nấu nhỏ lửa thêm 20-30 phút là được. Chia ra 3 lần uống trong ngày, uống ấm. Tác dụng: Chữa hung tý (tức ngực), tâm trung bĩ khí (đau tức ở vùng tim).
Chữa đau thắt tim: Dùng Củ kiệu 9g, Qua lâu 18g, Đan sâm 9g, Khương hoàng 9g, Ngũ linh chi 9g, Quế chi 6g, Đào nhân 9g, Hồng hoa 9g, Viễn chí 9g, Trầm hương bột 3g (hòa vào sau). Sắc nước uống trong ngày.Chữa kiết lỵ, ỉa chảy, mót rặn: Dùng Củ kiệu 9g, Sài hồ 9g, Bạch thược 12g, Chỉ thực 6g, Cam thảo 4g. Sắc nước uống.
Chữa xích lỵ (đi lỵ phân lẫn máu): Dùng Củ kiệu 12g, Hoàng bá 6g, sắc nước uống. Hoặc dùng Kiệu 1 nắm, thái nhỏ, nấu cháo ăn.
Chữa ỉa chảy, nôn khan không ngừng: Dùng Kiệu 1 nắm, nước 500ml, sắc cạn còn một nửa, chia thành nhiều lần uống.
Chữa bôn đồn khí thống: Dùng Củ kiệu giã nát, vắt lấy nước uống. Chú thích: “Bôn đồn khí thống” là tên bệnh trong Đông y, chỉ hiện tượng vùng bụng co thắt dữ dội, khí tích từ bụng dưới xông ngược lên, thẳng tới yết hầu, vùng ngực khó chịu, chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, phiền táo không yên; có khi nóng rét qua lại và nôn thổ ra mủ; sau khi bớt cơn lại tỉnh táo như thường. Vì ngực, bụng có cảm giác như bị lợn con húc vào (lợn con thúc vú lợn mẹ) nên mới có tên là “bôn đồn” (“bôn” = húc vào, “đồn” = lợn con).
Chữa hôn mê do trúng khí độc: Dùng Kiệu giã nát, vắt lấy nước nhỏ vào mũi.
Chữa lở ngứa: Dùng Lá kiệu nấu nước rửa, hoặc giã nát đắp lên chỗ da bị bệnh.
Chữa bỏng: Dùng Kiệu giã nhỏ hòa với mật ong, vắt lấy nước bôi vào chỗ bị bỏng, giúp da chóng lành.
Chữa hóc xương cá: Dùng Kiệu 1 nhúm, nhai nát, cuốn một đầu sợi dây nhỏ vào trong, nuốt đến chỗ xương bị hóc, cầm đầu dây kéo ra từ từ.
LY Hư Đan